-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
TRÀ XANH “FÌN HÒ TRÀ”
15/07/2020 Đăng bởi: FÌN HÒ TRÀTRÀ XANH CỦA “FÌN HÒ TRÀ”
Giải thích từ ngữ: "Phìn Hồ" hay "Fìn Hò" là tên vủa địa danh, đều có ý nghĩa giống nhau, nguyên âm khác nhau vì "Phìn Hồ" là ngôn ngữ phổ thông Việt Nam, còn "Fìn Hò" là ngôn ngữ của dân tộc người dao đỏ Hà Giang.
Giải thích từ và cụm từ: Vì sao lại gắn 2 từ ngữ "Fìn Hò" với từ "Trà" thành cụm từ "Fìn Hò Trà" vì cây chè mọc lên ở chính địa danh của thôn "Phìn Hồ" hay còn gọi "Fìn Hò" được gọi là "Fìn Hò Trà" theo đúng cách gọi người dân tộc Dao đỏ từ xa xưa.
Về ý nghĩa các từ: "Fìn, Hò, Trà" từ tiếng dân tộc Dao đỏ Hà giang sang tiếng Phổ thông Việt Nam cụ thể fìn "Fìn" là "Bằng" có nghĩa là vị trí có mặt bằng; "Hò" là "nước" có nghĩa nước trong hồ, nước suối…; "Trà" chính là chè dùng để làm đồ uống.
Câu chuyện "Fìn Hò Trà" là được bắt nguồn truyền thuyết kể lại từ xa xưa của người Dao đỏ ở thôn Phìn Hồ (Fìn Hò), xã Thông Nguyên, Huyện Hoàng Su Phì, Hà Giang. Gia phả để lại và truyền thuyết kể rằng: ngày xửa ngày xưa Phìn Hồ là vùng đất hoang sơ, chủ yếu là rừng nguyên sinh, có diện tích tự nhiên khoảng 500ha, có độ cao trung bình 1300m, có hình thù địa giới của thôn trải dài giống như một cây chè cổ thụ. Thôn Phìn Hồ cách xa trung tâm hành chính xã Thông Nguyên, huyện hoàng Su phì là 10km, cách trung tâm hành chính huyện Hoàng Su Phì, Hà Giang là 50km. Con đường đi đến thôn Phìn Hồ rất khó khăn. Từ giữa thế kỷ XVI (16) khi đó ở thôn Phìn Hồ (Fìn Hò) chỉ có 03 hộ gia đình sống trong rừng núi. Trong đó có 01 hộ là dân tộc Pà Thẻn, 02 hộ là Người Dao đỏ mang họ 'Lý" sinh sống và khai Hoang đất trồng lúa, trồng ngô và chăn nuôi trâu, ngựa... Đến cuối thế kỷ XVI (16) hộ gia đình người dân tộc Pà Thẻn đã di cư đi nơi khác vì ở đây khí hậu quá lạnh, có mây mù quanh năm độ ẩm cao nên không chịu được. 02 hộ người dân tộc Dao đỏ mang họ "Lý" đã rất kiên trì sinh sống làm ăn ở đây đến nay phát triển thành 58 hộ và 252 khẩu tất cả các đều mang họ "Lý" trừ những người từ nơi khác đến thôn làm dâu, rể. Tại thời điểm cuối thế kỷ XVI (16) lúc đó người Dao đỏ ở đây vẫn chưa biết cây chè là cây gì, mặc dù bắt gặp rất nhiều cây chè rừng mọc hoang trên núi nhưng tưởng đây là cây gỗ hoang dại. Có một hôm bác Lý Vàn Quấy là người lớn tuổi nhất trong thôn cùng con, cháu gia đình đi chăn Trâu, làm nương, rẫy trên đỉnh núi cao nhất của thôn đã bất ngờ phát hiện trên cái đỉnh núi có một cái "Hồ nước" mặc dù không có nguồn nước cao hơn chảy vào cho cái "Hồ nước" trên cao này nhưng quanh năm ngày tháng cái "Hồ nước" vẫn giữ mực nước không vơi đi dù trời nắng hay mưa. Nhờ có "Hồ nước" này đã thuận lợi cho cây cối phát triển xanh tươi quanh năm. Đặc biệt đàn Trâu của thôn thời kỳ đó người dân đều chăn theo hình thức thả dông đã giúp cho đàn Trâu được uống nước và tắm ở đó. Điều kỳ lạ này người Dao đỏ Phìn Hồ đã thống nhất đặt tên là " Ao tiên" vì theo quan niệm người Dao đỏ cho rằng chỉ có thần tiên mới có thể cấp nước cho cái ao này quanh năm.
Quá trình người dao đỏ sinh sống ở đây đi săn thú, làm rẫy, chăn Trâu qua lại thấy xung quanh "Hồ nước" có rất nhiều loài cây thân gỗ mọc tự nhiên, một loại cây gỗ to, thân cao, lá dài, màu xanh đậm, phiến lá có răng cưa, nở hoa màu trắng, thơm. Người Dao đỏ ở đây nghĩ đây là một loại cây thuốc chữa bệnh đã hái lá mang làm thuốc tắm, giã nhỏ chữa vết thương thấy khỏi nhanh và hãm nước uống thử thấy ngon, có vị chát và ngọt hậu. Từ đó người Dao đỏ mới biết loại cây đó là cây chè shan tuyết không biết đã có từ bao giờ trên ngọn núi cao thôn Phìn Hồ, khi phát hiện đã thấy cây to cả một người ôm không hết. Người Dao Đỏ đã lấy hạt trồng thêm diện tích nay đã thành bạt ngàn rừng chè Shan Tuyết cổ thụ Phìn Hồ. và chế biến theo cách thủ công như: Sao chè bằng chảo gang, sấy chè trên gác bếp, phơi chè khô bằng nắng, đựng chè bằng bao tải gai, chở chè đi bán bằng con ngựa…Đã trải qua nhiều thế kỷ người Dao đỏ đã biết sản xuất chế biến chè từ thủ công sang công nghệ máy móc hiện đại và tổ chức thành lập HTX sản xuất chế biến chè theo thị hiếu khách hàng, xây dựng thương hiệu, hình ảnh con người gắn với sản phẩm tiêu thụ trong và ngoài nước. Từ đó cái tên chè Phìn Hồ (Fìn Hò Trà) được xuất hiện dựa hiện tượng kỳ lạ là cái "Hồ nước" trên đỉnh núi cao quanh năm nước đầy, quanh hồ ở đâu cũng có cây chè mọc được gọi là chè Phìn Hồ (Fìn Hò Trà) đến nay người uống trà hầu như khắp trên thế giới đều biết đến người Dao đỏ và địa danh gắn với cây chè. Vào năm 2008 chính thức người Dao đỏ Thôn Phìn Hồ đã đạt tên cho chè của mình là "Fìn Hò Trà" đã được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ từ năm 2010 bởi chủ thể là HTX chế biến chè Phìn Hồ.
Fìn Hò Trà đã sản xuất chế biến thành 5 dòng sản phẩm khác nhau đó là: Trà xanh, Hồng trà, Trà đen, Bạch trà, Trà Tiên. Mỗi loại sản phẩm đều có hương và vị khác nhau tùy thuộc sở thích của người dùng. Điều đặc biệt Fìn Hò Trà đã được tổ chức liên minh Châu Âu chứng nhận sản phẩm Organic Eu từ năm 2015.
Đối với Trà xanh tuyển chọn từ những búp trà non chế biến theo quy trình diệt men và xử lý các khâu đoạn theo đúng kỹ thuật tiên tiến đảm bảo thơm ngon đem lại lợi ích và an toàn tuyệt đối cho sức khỏe người sử dụng sản phẩm. Sự kết hợp hài hòa mang đậm bản sắc giữa văn hóa người Dao đỏ và nền văn hóa uống trà trên thế giới thể hiện qua hình ảnh thiết kế mẫu mã bao bì, chất lượng sản phẩm, hướng dẫn cách pha, cách uống…
* Sự khác nhau giữa hai loại sản phẩm: Hồng Trà và Trà xanh một số nét cơ bản sau đây: Bao bì, nguyên liệu sản phẩm, nước đã có hình ảnh so sánh; Vị Hồng trà có vị ngọt và chát nhẹ, Trà xanh có vị đắng nhẹ và chát mạnh hơn; Hương Hồng trà có hương thơm gần giống như hương thơm quả táo chín, Hương Trà xanh mang đậm hương thơm của chè. Trà xanh được người Việt Nam và Trung Quốc ưa chuộng; Hồng trà được các nước phương tây ưa chuộng.
Trân trọng!